Nhật Bản trong quá trình hình thành và phát triển không thể không nhắc đến các tôn giáo nơi đâu. Mặc dù nhiều tôn giáo nhưng Nhật Bản tồn tại hai tôn giáo chính. Vậy hai tôn giáo chính tại Nhật Bản là tôn giáo nào.
>>Xem thêm: Văn hóa chụp hình của người Nhật.
Shinto (Thần đạo)
Shinto (神道 Shinto) tên khác: Kami-no-michi, là tôn giáo bản địa của Nhật Bản và của người Nhật Bản. Nó được định nghĩa là một tôn giáo tập trung vào hành động. Tôn giáo này chủ yếu là việc thực hành các lễ nghi một cách siêng năng để tạo lập một mối liên hệ giữa Nhật Bản ngày nay và cội rễ cổ đại của nó.
Thực hành Shinto đầu tiên đã được ghi lại và và hệ thống hóa trong các ghi chép lịch sử bằng văn bản của các tác phẩm Kojiki và Nihon Shoki trong thế kỷ thứ 8. Tuy nhiên, những tác phẩm đầu tiên của Nhật Bản không nói đến một “tôn giáo Shinto” thống nhất, mà là một tập hợp các tín ngưỡng bản địa và thần thoại.
Shinto ngày nay là một thuật ngữ nói đến tôn giáo của các ngôi đền công cộng dành việc thờ cúng vô số các vị thần (kami), phù hợp với các mục đích khác nhau như các đài tưởng niệm chiến tranh và các lễ hội mùa màng. Điều này cũng áp dụng cho các tổ chức giáo phái khác.
Thần đạo hiện nay tại Nhật Bản.
Shinto là tôn giáo lớn nhất ở Nhật Bản, phổ cập gần 80% dân số. Nhưng chỉ có một phần nhỏ dân số tự nhận mình là “tín đồ Shinto” trong cuộc điều tra. Lý do là “Shinto” có nhiều nghĩa khác nhau ở Nhật Bản: đa số dân Nhật Bản đến các đền thờ Shinto và cầu xin kami mà không thuộc về bất kỳ tổ chức tôn giáo Shinto nào. Mặt khác do không có nghi lễ chính thức để trở thành một thành viên của “Shinto”. Nên số lượng “hội viên Shinto” được ước tính bằng cách đếm những người tham gia các giáo phái Shinto có tổ chức. Shinto có 100,000 đền thờ và 78,890 linh mục tại Nhật Bản.
Nhiều giáo phái trong số những tôn giáo mới có nguồn gốc Shinto và giữ lại các nhân vật cơ bản của Shinto. Các tôn giáo mới này thường tự nhận mình là một hình thức của Shinto. Các tôn giáo gốc Shinto này bao gồm Tenrikyo, Konkokyo, Omotokyo, Shinrikyo, Shinreikyo, Sekai Shindokyo, Zenrinkyo. Một số tôn giáo độc lập mới là Aum Shinrikyo, phong trào Mahikari, Nhà thờ Tự Do hoàn hảo, Seicho-no-le, Nhà thờ Thế giới Messianity,…
Phật giáo.
Phật giáo (仏教 Bukkyō) lần đầu tiên đến Nhật Bản vào thế kỷ thứ 6, được giới thiệu tới Nhật vào năm 538 hoặc 552 từ vương quốc Baekje ở Triều Tiên. Vua Baekje gửi cho hoàng đế Nhật Bản một bức ảnh của Phật và một vài bộ kinh.
Sáu phái Phật giáo đầu tiên được thành lập ở Nara ngày nay cùng được gọi là “Phật giáo Nara”.
Với chính sách Minh trị Duy tân năm 1868, liên quan đến việc tập trung quyền lực của triều đình và hiện đại hóa nhà nước. Shinto đã được chọn là quốc giáo và kế hoạch loại bỏ các ảnh hưởng lẫn nhau của Shinto và Phật giáo được ban hành. Sau đó là một phong trào tiêu diệt triệt để Phật giáo.
Ngày nay, giáo phái Phật giáo phổ biến nhất là Tịnh độ tông. Giáo phái này nhấn mạnh vai trò của Phật A-di-đà. Hứa hẹn rằng nếu đọc liên tục các cụm từ “Nam mô A di đà Phật” thì khi chết sẽ được A-di-đà đưa lên “Tây phương cực lạc”, và sau đó tới Niết-bàn. Tịnh độ tông thu hút các tầng lớp thương gia và nông dân.
Sau khi Honen, người truyền giáo Tịnh độ tông đầu tiên tại Nhật Bản chết đi. Tịnh độ tông chia rẽ thành hai phái: Jodo-shu (tịnh thổ tông), tập trung tụng niệm các cụm từ lặp đi lặp lại nhiều lần. Và phái tự do hơn Jōdo Shinshū, vốn tuyên bố rằng chỉ cần tụng những cụm từ một lần với trái tim thuần khiết là đủ rồi. Ngày nay, nhiều người Nhật Bản đi theo môn phái Nishi Honganji-ha, một nhánh bảo thủ của Jodo Shinshu.
Một số tông phái của Phật giáo tại Nhật.
Một giáo phái Phật giáo phổ biến khác là Phật giáo Nhật Liên. Tông phái được thành lập bởi tu sĩ thế kỷ 13 tên Nhật Liên. Người nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh Pháp Hoa.
Tính đến năm 2007, đã có hơn 315,000 tu sĩ, các đại đức và các nhà lãnh đạo Phật giáo ở Nhật Bản.
Tính đến năm 2014, đã có hơn 377,000 tu sĩ Phật giáo, đại đức và các nhà lãnh đạo Phật giáo tại Nhật Bản, tăng hơn 60.000 so với năm 2007.
>>Xem thêm: Quốc kỳ Nhật Bản ẩn chứa điều gì?
Leave a Reply